Georges Braque (Argenteuil-sur-seine, 1882 - Paris, 1963)
Sau khoá đào tạo về thiết kế nội thất, Georges Braque đến Paris vào năm 1900 để tiếp tục học nghề và nghiên cứu nghệ thuật. Năm 1906, nghệ thuật của ông gắn liền với trào lưu Fauvism (dã thú), nhưng vào năm 1907, hai sự kiện đã thay đổi hoàn toàn phong cách của ông: đó là buổi triễn lãm hồi tưởng về các tác phẩm của Cézanne tại Salon d'Automne, và cuộc gặp gỡ với Picasso ở phòng tranh nơi mà bức Les Demoiselles d'Avignon được trưng bày. Braque và Picasso đã cộng tác với nhau trong 5 năm để phát triển một cách tiếp cận hình ảnh mới, chủ nghĩa lập thể (Cubism). Nó dựa trên ý tưởng phá bỏ luật phối cảnh và sự xếp đặt chồng chéo các mặt phẳng trên một bức tranh.
Đi theo hướng trừu tượng, họ tái tạo một dạng ảo ảnh, bằng cách chỉ đưa ra các yếu tố gợi nhớ về thế giới thực trong tác phẩm. Phần lớn các đổi mới của họ là về hình dạng (giấy in chữ cái âm bản đục lỗ, giấy dán, hiệu ứng đánh lừa thị giác, xếp chồng đa lớp) đến từ những kiến thức của Braque về nghệ thuật trang trí. Sự hợp tác của họ kết thúc khi Braque tòng quân. Trở về cùng với chấn thương ở đầu vào năm 1917, Braque quay lại chủ nghĩa Lập thể một thời gian. Sau đó ông phát triển một phong cách đậm nét cá nhân hơn. Tác phẩm của ông tập trung vào mối quan hệ giữa các đối tượng trong không gian, tìm kiếm sự cân bằng hài hoà giữa màu sắc, hình thái bề mặt và kết cấu. Việc tìm kiếm sự hài hòa này có thể nhìn thấy trong chuỗi tác phẩm Guéridons, Billands và Ateliers, và qua niềm say mê về những chú chim.
Cột mốc
- 1907, tạo ra chủ nghĩa Lập thể cùng Picasso
- 1915, bị thương ở đầu trong chiến tranh, hai năm điều trị
- Những năm 1920, chuỗi tác phẩm Guéridons
- 1949-1956, chuỗi tác phẩm Ateliers
- 1953, ông trở thành nghệ sĩ còn sống đầu tiên được triển lãm tại Louvre
- 1963, ông mất và được làm quốc tang
Người Bồ Đào Nha (Người di cư), 1911: hình ảnh của một nghệ sĩ guitar ngồi bên cửa sổ của một quán cà phê, trên một bến cảng, là một trong những tác phẩm lập thể phức tạp nhất của Braque. Việc chèn các chữ cái đục lỗ chỉ là sáng tạo đầu tiên của ông được giới thiệu trong hội họa.
Đào sâu vào chi tiết, các chữ cái và số cung cấp manh mối để giải mã tác phẩm này. Các chữ cái “D BAL” đến từ một mảnh áp phích quảng cáo vũ hội và các con số “10, 40” đến từ hóa đơn cà phê. Do đó, cách trang trí có vẻ giống như của một quán cà phê. Các yếu tố này được chồng lên các đối tượng trên bức tranh, giúp bức tranh có thể được cảm nhận qua nhiều góc độ.
Atelier IX (1952-1956): Chín bức tranh của chuỗi tác phẩm Ateliers tạo ra chín bức tự hoạ về việc xưởng vẽ của hoạ sĩ được một chú chim thăm viếng.
Bouteille, journal, pipe et verre (Chai, báo, tẩu và ly), 1913: trong suốt thời kì “synthetic cubism” (1912-1914), Braque giới thiệu các yếu tố đa dạng tác phẩm. Việc phối hợp các đồ vật thực (ví dụ: tờ báo), những bức vẽ chì, bản in (giấy giả gỗ) tạo ra nhiều mức độ ảo ảnh đa dạng.
Canéphore, 1922: Sau chiến tranh, Braque, như rất nhiều hoạ sĩ khác, làm mới mình với nguồn cảm hứng cổ điển. Các bức tranh thời kì này thường có bề mặt sần sùi và những đường nét chảy gợi nhớ đến những bức bích họa thời cổ đại. Những bức tranh khoả thân của Renoir rất được các nhà sưu tập yêu thích vào thời điểm đó, và Braque không phải là nghệ sĩ duy nhất trong thời kỳ này khắc họa những nhân vật phụ nữ có tầm vóc oai vệ như vậy.
Biểu tượng màu mỡ trong tác phẩm: một trong những cánh tay giống như thân cây, và kết thúc bằng một bàn tay kết hợp với những trái cây trong giỏ, người phụ nữ có vẻ cắm rễ xuống đất. Mối liên hệ giữa phụ nữ với sự màu mỡ của đất đai phản ánh mối quan tâm của Pháp đối với việc tái định cư sau sự tàn phá của chiến tranh.
-- Histoire de l'art en images, Andrew Graham-Dixon --
Nhận xét
Đăng nhận xét